Bài ca Trường Nguyễn Văn Trỗi

Nhạc và lời: Hồng Tuyến

Thứ Ba, 31 tháng 3, 2015

Những vị tướng của trận đánh lớn: Người đề xuất phương án tác chiến “Chiến dịch Hồ Chí Minh”

Trung tướng Cao Văn Khánh (bên trái) và Đại tướng Lê Trọng Tấn tại Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào... Đọc thêm tại: http://nongnghiep.vn/nhung-vi-tuong-cua-tran-danh-lon-nguoi-de-xuat-phuong-an-tac-chien-chien-dich-ho-chi-minh-post140774.html | NongNghiep.vn
Trung tướng Cao Văn Khánh (bên trái) và Đại tướng Lê Trọng Tấn tại Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào... 
Chỉ huy từ Đại đoàn đến Binh đoàn
Cuối tháng 6/1973, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21. Đây là hội nghị cực kỳ quan trọng, nhằm khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam bằng chiến tranh cách mạng của quân và dân ta. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hồi ức "Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng" (Đại tá Phạm Chí Nhân thể hiện - NXB Chính trị Quốc gia, 2000) đã viết: “Tôi tập trung suy nghĩ những vấn đề chiến lược trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Trực tiếp giúp tôi là các đồng chí Tổng tham mưu phó Lê Trọng Tấn và Cao Văn Khánh, hai đồng chí từng chỉ huy đánh lớn, hai đồng chí gắn bó lâu năm trong nhiều chiến dịch, hai người bạn chiến đấu trung thực và chân thành”. Ở thời điểm ấy, Trung tướng - Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh, có thể nói, là người duy nhất trong số các tướng lĩnh quân đội đã từng chỉ huy chiến đấu từ Đại đoàn đến Binh đoàn chủ lực. Người chỉ huy chiến đấu binh chủng hợp thành, người có nhiều kinh nghiệm cũng là ông. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Cao Văn Khánh đã có mặt trên khắp các chiến trường: Khu trưởng chiến khu V (1945), Đại đoàn phó đầu tiên Đại đoàn 308 (1949) - Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ Tổng Tư lệnh. Kháng chiến chống Mỹ ông lại tiếp tục lên đầu chiến tuyến, gắn bó với chiến trường miền Trung và Tây Nguyên với các chiến dịch lớn như Đắc Tô (1966), Khe Sanh (1968), Đường 9 (1971), Quảng Trị (1972), Tây Nguyên (1973). Sự từng trải trận mạc, kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu những chiến dịch lớn mà đặc biệt là sự thích ứng nhanh chóng với diễn biến chiến tranh để ông có phương án tác chiến kịp thời hiệu quả. Từ kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm đầu, nhưng khi thời cơ đến công tác tham mưu chiến lược phải đáp ứng nhanh và có đủ các phương án đánh địch kịp thời giúp Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975. Đề xuất phương án tác chiến “Chiến dịch Hồ Chí Minh” Cao Văn Khánh là một vị tướng tài ba của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông xuất hiện đúng lúc cùng với cuộc chiến tranh cách mạng ba mươi năm giải phóng dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống hai thế lực đế quốc hùng mạnh nhất của thế kỷ XX là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một cuộc đối đầu lịch sử không cân sức, tựa như châu chấu đá voi, giữa một bên là quân và dân Việt Nam với một bên là những đội quân nhà nghề chinh chiến có lịch sử lâu đời với những vũ khí hiện đại nhất thời bấy giờ. Phó Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Khánh có vai trò rất quan trọng ở Tổng hành dinh trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Đề xuất phương án tác chiến giải phóng Sài Gòn
Ông đã chủ trì nghiên cứu đề xuất phương án tác chiến giải phóng Sài Gòn trong “Chiến dịch Hồ Chí Minh” lịch sử. Đêm 15/3/1975, Cục Quân báo phát hiện một hoạt động đáng chú ý ở Trị - Thiên: Liên đoàn biệt động quân 14 Việt Nam cộng hòa chuyển ra Quảng Trị thay thế Sư đoàn lính thủy đánh bộ chuyển phần lớn vào Đà Nẵng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: Quân đội Việt Nam cộng hòa yếu hơn nhiều so với sự đánh giá của ta trước lúc mở cuộc tiến công. Kế hoạch hai năm có thể rút ngắn. Giải phóng miền Nam có thể sớm hơn. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đem những suy nghĩ của mình trao đổi với các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Cao Văn Khánh, Lê Hữu Đức và một số đồng chí khác trong Bộ Tổng tham mưu. Tất cả đều đồng tình. Cuối tháng 4/1975, giờ phút quyết định đã điểm. Chiến trường Nam bộ bùng lên như một cơn lốc. Ở Hà Nội, các cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh thường trực 24/24 giờ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các đồng chí Tổng tham mưu phó Hoàng Văn Thái và Cao Văn Khánh thường trực ở Sở Chỉ huy.
Từ 18 giờ ngày 29/4/1975, trận tiến công Sài Gòn - Gia Định đã bắt đầu. Lại một đêm nữa, cả Tổng hành dinh cùng thức với chiến trường, vì miền Nam, vì cả nước. Cục Quân báo vừa nắm được tình hình địch mới nhất. Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh điện gấp cho các chiến trường: “Có tin địch đã lệnh cho các tàu hải quân ở Cần Thơ, Đồng Tâm và Phú Quốc tập trung ở một địa điểm, và một số tàu đổ bộ chuẩn bị đi sang đảo Guam, 78 máy bay của ngụy đã chuyển đến Utapao… Theo dõi xem tàu hải quân có chở bộ binh theo không và có kế hoạch đánh cho kịp”. Ngày 30/4/1975, Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh trực ban ngày hôm ấy, túc trực tại phòng tác chiến, chốc chốc lại sang “Nhà Rồng” báo cáo tình hình mới nhất với đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Tổng Tư lệnh Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên Giáp.
11 giờ 50 phút, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng! 
Tại Sở Chỉ huy, có mặt Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh, Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục Tuyên huấn Nguyễn Trọng Yên và Phó cục trưởng Cục Tuyên huấn Phạm Chí Nhân. Không ai chú ý đến nghỉ ngơi, ăn uống. Có người đã nói, thời đại Hồ Chí Minh đã sản sinh ra một lớp người có những bộ óc thông minh tài giỏi đáp ứng với sự đòi hỏi của lịch sử. Cao Văn Khánh là một trong những người như thế - không nhiều trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau gần 30 năm chỉ huy chiến đấu khắp các chiến trường, năm 1973 ông được điều về Bộ Tổng Tham mưu với chức vụ Phó Tổng Tham mưu trưởng. Đại tá Nguyễn Giang Hà, nguyên Trưởng ban tổng kết của Bộ Tổng tham mưu, trong bài “Nhà Rồng và Bộ Tư lệnh 542” nhận định: “Đồng chí Cao Văn Khánh thì văn võ song toàn, dịu hiền, làm việc khoa học, coi trọng các cán bộ có trình độ, y hệt tính cách Đại tướng Võ Nguyên Giáp: thương lính, yêu quý mọi cán bộ, chăm lo rèn luyện cho cấp dưới…”
Trung tướng Cao Văn Khánh (1917-1980) sinh tại Huế trong một gia đình quý tộc trí thức của triều Nguyễn. Ông từng sang Pháp học bằng Cử nhân Luật.
Ngoài công tác chỉ huy các đơn vị chiến đấu trực tiếp, Cao Văn Khánh còn đảm nhiệm Cục trưởng Cục Quân huấn, Hiệu trưởng trường Sĩ quan Lục quân (1960)... Ông được thăng quân hàm Thiếu tướng (1974), Trung tướng (1980)...

http://nongnghiep.vn/nhung-vi-tuong-cua-tran-danh-lon-nguoi-de-xuat-phuong-an-tac-chien-chien-dich-ho-chi-minh-post140774.html

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

Ảnh cũ tặng thầy!

Nhân dịp mừng thầy B Trưởng bước sang tuổi 75, tập thể cựu học sinh B6 kính tặng thầy một cuốn album khổ lớn để thầy lưu những tấm ảnh kỷ niệm. Cùng với cuốn album còn có 3 bức ảnh cũ gợi nhớ các trò Trỗi. Mình xin đưa lại để mọi người cùng chiêm ngưỡng
Mời các bạn xem hình đóan bạn!

B6K8 đón bạn cũ - mới toanh!

Thứ bảy ngày 21 tháng 3, B6 và đại diện các bạn K8 của các B khác họp mặt ở Vườn Treo để đón bạn Bùi Băng Biên lần đầu. Cũng trong buổi gặp mặt này, các trò K8 chúc mừng thầy Btrưởng Ngô Gia Thụy sang tuổi 75 và đón chào sự có mặt của thầy Phạm Lực cùng vợ mới là người Scotland.
Từ trái sang phải: HÀNG 1 (ngồi): Thái (B6), Hoàng Châu Hương (em gái bạn Hoàng Châu Linh B5), thầy Ngô Gia Thụy (B trưởng B6), thầy Phạm Lực, vợ mới của thầy Lực, Lê Thanh Bình (b6), Trần Văn Bình (b5), Nguyễn Quang Vinh (b3), Nguyễn Thanh Đông (B6); HÀNG 2: Phạm Quân (B6), Phạm Huy Vũ (B6), Ngô Hoàng Hà (B6), Quản Thế Sơn (B1), Lưu Mạnh Hà (B6), Bùi Chuẩn (B5), Nguyễn Xuân Tiến (B6), Nguyễn Quốc Tuấn (B6), Nguyễn Trọng Dương (B6); HÀNG 3: Bùi Thắng (B2), Phạm Việt Thanh (B6), Phạm Quang Trung (B6), Phạm Nguyên Bình (B1), Trần Bình Trọng (B4), Bùi Việt Sơn (B6), Nguyễn Quang Hà (B1), Nguyễn Thanh Bình (B6); HÀNG 4: Nguyễn Huy Cường (B6), Nguyễn Nam Hùng (B6), Nguyễn Tiến Long (B6), Nguyễn Thành Biên (B6), Nguyễn Minh Chính (B6), Bùi Nguyên Khánh (B2), Ngô Anh Vinh (B5), Phan Thanh Hà (B4), Nguyễn Ngọc Đại (B6), Bùi Băng Biên (B6). Ngoài những bạn có mặt trong ảnh trên, tham dự buổi gặp mặt còn có: Phạm Ngọc Thiết (B2), con dâu Phạm Ngọc Thiết, Phan Việt Dũng (B1), Lê Ngọc Hiền (B3).

Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2015

TƯỚNG PHẠM HỒNG SƠN, MỘT ĐỜI CHIẾN TRẬN

TƯỚNG PHẠM HỒNG SƠN, MỘT ĐỜI CHIẾN TRẬN

Tướng Phạm Hồng Sơn sau chiến dịch Biên Giới1950Tướng Phạm Hồng Sơn sau chiến dịch Biên Giới1950
Năm ngoái, Nghệ An tổ chức cuộc gặp gỡ tri ân cán bộ cấp tướng xuất thân từ tỉnh nhà. Tôi không thấy tướng Phạm Hồng Sơn, được biết ông vắng mặt vì lí do sức khoẻ tuổi già. Năm nay, kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội , đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ  Hồ Đức Phớc viết trên Báo Nghệ An bài “Tự hào về tướng lĩnh trên quê hương Bác Hồ”, có đoạn trân trọng nói về Phó Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên Phạm Hồng Sơn, ông lại vẫn “vắng mặt” vì đã qua ngày giỗ đầu của ông rồi! Trong tôi, hình ảnh ông, tên tuổi ông, sẽ mãi mãi có mặt cùng người thân, đồng đội, cùng quê hương đất nước.
Phạm Hồng Sơn sinh năm 1923, là con ông bà Phạm Thành Tính - Nguyễn Thị Ngần, quê làng Do Nha, xã Hưng Nhân, huyện Hưng Nguyên. Cố nội, ông nội và cha ông đều tham gia phong trào Văn Thân chống Pháp(*) nên bị chính quyền thực dân phát vãng ra vùng rừng núi phía Bắc để cắt đứt hoạt động với nghĩa quân Phan Đình Phùng. Thời trẻ, ông học ở trường Gia Long, đậu tú tài Tây toàn phần năm 17 tuổi (1940), tiếp đó là sinh viên trẻ nhất của trường Đại học Luật Hà Nội, rồi xếp bút nghiên hoạt động trong phong trào sinh viên đòi độc lập. Năm 1945, ông được cử học trường Quân chính Kháng Nhật vẻn vẹn 15 ngày, và đó là cái vốn kiến thức quân sự ít ỏi đầu tiên trước khi khoác áo Vệ quốc đoàn chiến đấu chống Pháp, chống Mỹ trên hầu khắp các chiến trường: Từ Khu V ra Kinh Bắc; lên Biên Giới; xuyên Tây Bắc, Điện Biên Phủ, Thượng Lào; vào Tây Nguyên, Đường 9 - Nam Lào đến cuộc Tổng tấn công Mùa Xuân 1975. Rồi tiếp đến chiến trường Tây Nam… Và có một “trận” rất đặc biệt giữa đời chiến trận của ông là trận khắc phục  vỡ đê Mai Lâm (sau trận Cầu Lồ vài ba năm) mà ông được Chính phủ giao làm Tổng chỉ huy. Đây là trận chiến chống thiên tai khủng khiếp nhất trong lịch sử đê điều nước ta mà tôi được chứng kiến và tham gia hàng tháng trời trong đoàn quân có 2 sư đoàn bộ đội, dân công, học sinh, sinh viên; hàng ngàn người lặn lội đào đắp trong bùn đất, dựng lại nhà cửa, lau chùi máy móc thiết bị của hàng chục nhà máy, nhà  kho bị ngập trong cát sỏi…
Sau khi thống nhất đất nước với tư cách là Giáo sư khoa học quân sự ông viết cuốn sách “Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam” thể hiện trí dũng song toàn của một con người trong quân ngũ không mệt mỏi, chiến đấu ròng rã gần 60 năm trời qua hai cuộc chiến chống hai đế quốc lớn. “Cuốn sách là một công trình nghiên cứu công phu, có ý nghĩa thực tiễn, có thể giúp ích cho các học viện, các trường trong quân đội, các cán bộ và cơ quan khoa học ngoài quân đội” (Lời giới thiệu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Cuộc đời và sự nghiệp của tướng Phạm Hồng Sơn được khái quát mấy nét cô đọng trên đây hoàn toàn có khả năng liên tưởng, mở rộng thành một tác phẩm nhiều chiều về một con người, một khoảng thời gian đa dạng phong phú và lâu dài như đầy những chớp sáng dày đặc nhấp nhánh sắc màu trên sa bàn quân sự. Nhưng ông sống hồn nhiên trong lòng người. Tập hồi ức khiêm nhường “Nửa đời chiến trận” của ông chỉ chưa đầy 80 trang sách nhỏ và dừng lại ở chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội. Đất nước còn bị chia cắt, người lính Cụ Hồ tiếp tục ra trận cho tới mùa xuân lịch sử năm 1975. PGS,TS, Nhà văn Đặng Anh Đào, vợ ông, đã thay ông – nhân vật chính – viết tập “Vầng trăng khuyết”. Và đó là “Nửa đời chiến trận” tiếp theo của cuốn hồi ức và chân dung về ông có tên “Nhớ và Quên”. Nhớ và Quên là một cuốn sách nhỏ rất lớn về nhiều mặt, đầy ắp những sự kiện gốc của một thời lịch sử huy hoàng và đau thương tan nát, đầy ắp những tấm lòng yêu nước, tình người trong máu và nước mắt, hội tụ đầy đủ cội nguồn văn hoá truyền thống qua một con người có những nét riêng.
Năm 1954, sau giải phóng Thủ đô, tôi về học lớp 8 Trường cấp III Hà Nội mà hồi đó người ta gọi là “Trường con em cán bộ”. Tôi được gặp Phạm Hồng Sơn nhiều lần, tuy thời gian mỗi lần gặp ngắn ngủi, chỉ tính bằng giờ. Tuổi trẻ chúng tôi lúc ấy thường trăn trở nhiều về lý tưởng sống, hết sức ngưỡng mộ các sĩ quan và những anh bộ đội Cụ Hồ. Ngoài những cái chất chủ yếu của người lính, Phạm Hồng Sơn trẻ trung, đọc tiểu thuyết và “nói tiếng Pháp như gió”, chơi ten nít, chơi đàn ghita Espanhon, tự lái mô tô, ô tô nhà binh… Tôi và mấy cậu bạn cùng lớp phục lăn! Có lẽ đó là gốc gác dẫn đến khái niệm  “thần tượng” quí giá mà ngày nay người ta có phần sao lãng, chỉ chú ý xây dựng tượng đài, có khi vô hồn trống rỗng. Một lần, tôi cứ luẩn quẩn bên cái xe mô tô Pháp. Xe đổ, xăng tràn ra từng vũng ở nhà xe, tôi hoảng hốt lấy chổi quét loang ra khắp nền nhà cho nó bốc hơi nhanh đi, nhưng vẫn còn mùi nồng nặc. Ông xuống gác, cười, và bảo “Mặc quần áo ấm đi chơi với anh!”. Tôi ngồi sau chiếc xe “bình bịch” cổ lỗ sĩ kêu ầm đường phố, nhưng là của hiếm lúc bấy giờ. Xe lao ra khỏi Ngã Tư Sở và tiến về sân bóng Hà Đông. Thế là lần ấy một thằng bé được ngồi giữa ông và ông Chủ tịch tỉnh trên một lễ đài nhỏ nhưng trang trọng, xem trận đấu giữa hai đội bóng quân đội và địa phương. Tôi thấy ông rất am hiểu phép tắc bóng đá, khi nói “Xử lý cái phép lợi thế là làm cho trọng tài đau đầu nhất!”. Chắc là cái “phép lợi thế” này có liên quan đến bàn cờ binh nghiệp? Hồi đó, ông là Tham mưu trưởng đại đoàn Quân tiên phong 308 nổi tiếng. Đến thời chống Mỹ, tôi về Nghệ An công tác, thỉnh thoảng mới được gặp ông chốc lát từ chiến trường Tây Nguyên ra Hà Nội, khi ông đến thăm gia đình bố mẹ vợ. Chiến tranh làm cho sức khoẻ sút kém và con người già đi. Tôi nghe nói có những trận đánh bộ đội phải cáng ông ra trận địa chỉ huy. Nhưng nét mặt và tâm hồn ông vẫn trẻ trung hồn nhiên như ngày nào, sự hồn nhiên tự tin, trong sáng. Không ít lần ông vui vẻ nói đại loại những câu: “Lính của anh sắp được nhận tên lửa vác vai”, hoặc: Cái cậu gì ở huyện Phục, ông Sáu đang định cấu tạo Trung ương uỷ viên dự khuyết đấy”. v.v… mà những người “vai vế” thường cẩn thận giữ gìn. Gần đây, xem những dòng hồi ức của ông và chân dung về ông, tôi vẫn thấy nhiều những tình tiết hồn nhiên, cởi mở, thân thiết như thế đối với gia đình, bạn bè, đồng đội của một vị tướng đầy cơ mưu trước kẻ thù. Tôi không ngạc nhiên khi một tân binh như ông, mới mặc áo lính là được giao ngay Chỉ huy đại đội Nam tiến đầu tiên, vì ông là thế hệ thứ tư của một gia tộc chống Pháp, chú ruột là liệt sĩ Phạm Hồng Thái; chị ruột là bà Phạm Thị Kim, chuyên gia Hán nôm, vợ nhà cách mạng Khuất Duy Tiến; anh ruột là Luật sư Phạm Thành Vinh thủ lĩnh sinh viên, Chánh Văn phòng bộ Quốc phòng, tác giả cuốn sách “Kinh tế Miền Nam”… Nhưng ông nói chẳng rõ vì sao người ta bố trí chức vụ đó cho mình! Ông không giấu những điều ấu trĩ khi kể chuyện trận đánh đầu tiên ở Quảng Ngãi là một trận… tưởng tượng: cả trung đội hò nhau bắn vào một đồi sim động đậy trước gió vì bị ám ảnh là tụi Nhật Bản thiện chiến!... Trên chiến trường Đường 9 – Nam Lào khốc liệt mà nhiều danh tướng của ta và địch đã viết sách về nó, Phó Tư lệnh B70 Phạm Hồng Sơn ngày 5 – 1 – 1971 gặp Đại tá Phan Hữu Đại Sư trưởng Sư đoàn 571 Bộ đội Trường Sơn để phổ biến tình hình và nhiệm vụ. Đồng chí Phan Hữu Đại kể lại buổi làm việc rất khẩn trương căng thẳng này. Trên tấm bản đồ trải rộng, Phó Tư lệnh đã nêu ra nhiều vấn đề: thông tin kỹ thuật ta nhận được là địch đang gấp rút mở cuộc hành quân đại quy mô, dự báo những mũi tiến công nào của chúng, bằng trực thăng, bằng các đơn vị thiết giáp…, các phương án tác chiến và dự phòng biến động của ta, những không gian thời gian có tính quyết định… Rồi đồng chí nêu số lượng tăng pháo, số lượng cơ sở vật chất bảo đảm cho chiến dịch… Xong việc, thì bom B52 rải thảm ào ào đổ xuống làm rung giật cả hầm chỉ huy, Phó Tư lệnh tranh thủ chuyển sang câu chuyện tâm tình:
“-Anh Đại quê ở Quỳnh Đôi. Hoá ra anh cùng quê với cụ cử Hồ Phi Huyền tác giả cuốn sách “Nhân đạo quyền hành”. Anh có quen cụ cử Hồ Phi Huyền không?
-Có. Cụ là bố vợ nhà văn Đặng Thai Mai. Tôi quen biết cụ vì cụ giúp giảng cho tôi những danh từ khó hiểu trong tác phẩm triết học phương Tây hồi tôi mới tập nghiên cứu, trước cách mạng Tháng 8. Nhưng đồng chí có quan hệ gì với cụ Hồ Phi Huyền?
- Bố vợ tớ là rể của cụ mà.
- Vậy đồng chí là cháu rể làng Quỳnh chúng tôi. Hay quá!”
(Báo Nhân Dân ngày 20 – 2 – 2006).
Đức tính hồn nhiên của ông trong ngày thường không phải không có những lúc hồn nhiên trong day dứt, xúc động. Bởi ông là người chỉ không biết bi quan. Nước mắt đau thương đã rơi quá nhiều qua hàng trăm trận đánh. Nhưng có lẽ nước mắt ông và đồng đội trước những thi hài mất dạng vì bom na pan  ở trận Cầu Lồ - trận cuối cùng chống Pháp sau trận Điện Biên Phủ ba tháng, do ông chỉ huy là xót xa nhất trước thời điểm mở ra hoà bình, nhưng ít được biết tới vì lúc này ánh hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ quá chói lọi… Ông không lảng tránh những điều tai ương đau đớn. Đã có lần ông phát biểu trước một cử toạ: “Có lẽ trong đời của một con người, không ai là không tránh khỏi oan ức. Người oan nhiều, người oan ít, nặng, nhẹ… Con người ta dù có sức mạnh trong tay như tiền của, quyền hành, hoặc chẳng có chút quyền lực gì, lại nghèo hèn nữa nhưng cũng không phải không có một lần gây oan cho người khác, làm họ đau khổ dằn vặt. Thiếu thốn về vật chất đã khổ rồi nhưng vẫn có thể vượt qua được, còn đau đớn về tinh thần thì không gì có thể bù đắp nổi và đau đớn mãi mãi…” Một trái tim giữa đời. Ông nói vậy, nhưng ông là chiến binh kỳ cựu đánh giáp lá cà buộc phải luôn luôn chớp nhanh cách thắng mà sống. Người thấy cái giá sự sống của mình sẽ có cách sống của mình.
Thế hệ ông là thế hệ cách mạng thứ hai của đất nước, được sống trong buổi đầu gặp gỡ hân hoan và đẹp đẽ của người trí thức với sự nghiệp cứu nước, được chứng kiến và hưởng lợi thời kỳ mà mối quan hệ giữa trí thức với giới quyền lực gặp gỡ thăng hoa đơm kết qua những con người mà thành tựu khoa học, nghệ thuật lừng lững song hành với sự nghiệp cách mạng lẫy lừng trên cái nền mẫu số chung là yêu nước, - để trở thành những “hạt giống đỏ” quyết chiến và quyết thắng…
Ngày ông mất, tôi mở những sách ông tặng đọc lại. Tác phẩm chủ yếu của ông -  “Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam” (NXB Quân đội nhân dân-1997) là một công trình nghiên cứu nghiêm túc những thời lịch sử đã qua và tâm huyết trách nhiệm với những thời khắc đang tới. Vốn là vị tướng dày dạn chiến trường đồng bằng, miền núi, cao nguyên, nhưng ông đặc biệt quan tâm vị trí chiến lược của sông biển trong chiến tranh ở Việt Nam. Diện tích nước ta phần đất chỉ bằng 1/3 phần nước (biển). Biển có hơn 3.000 đảo lớn nhỏ cộng với vùng trời liên quan. Có thể hai tiếng “đất nước” được gọi tắt là “nước” mà tổ tiên ta đã ý thức được từ rất xa xưa. Ông còn viết những điều sau đây rất sớm (khi ngày nay người ta đã xoá bộ Hải sản), và hơn một lần nhắc đi nhắc lại: “Sông biển ven đất liền luôn luôn là trục sống của cư dân. Cần có một hạm đội đủ sức cùng với lực lượng vũ trang nhân dân địa phương đánh bại các cuộc tập kích đổ bộ của hải quân địch; phối hợp với không quân làm thất bại những mưu đồ đánh chiếm đảo và quần đảo của ta”. Từ đó ông đặc biệt nhấn mạnh lập luận: “Đi đôi với khoa học quân sự cần phát triển đồng thời khoa học kỹ thuật quân sự”. Tình hình giờ đây càng thấy rõ sức mạnh tổng thể  to lớn của quốc phòng không thể khôngcấp thiết thực hiện điều đó.
Một công dân mẫu mực; Một vị tướng văn võ song toàn ra đi từ giảng đường đại học, trưởng thành trong chiến tranh giữ nước; Một đời người hồn nhiên phơi phới… Đó là Phạm Hồng Sơn. Không phải ngẫu nhiên khi ông đưa ý tưởng của Lênin “Hãy bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là Tổ quốc” vào phần Kết luận cuốn sách giá trị của mình.
                                                                                   Vinh, ngày 15/12/2014

(*) Phong trào Văn thân: Khởi phát từ 1864 tại các trường thi hương ở miền Bắc nhằm phản đối nhà Nguyễn Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) nhập 3 tỉnh miền Đông Nam bộ. Phong trào chủ trương “Bình Tây, sát tả”. Phong trào phát triển mạnh ở Nghệ Tĩnh, đỉnh cao là khởi nghĩa Trần Tấn – Đặng Như Mai. Về sau các hoạt động của phong trào này mới theo phong trào Cần vương nhưng vì chủ trương sát tả nên đã bị cô lập, tẩy chay.
Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/dat-va-nguoi-xu-nghe6/nguoi-xu-nghe43/tuong-pham-hong-son-mot-doi-chien-tran

Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2015

HỒI ỨC LA HIÊN (6)

SOUND #5 (phục hồi) - ... Làm sao nhà Thắng lại có màn đôi trường Trỗi? - Bố mình là Bùi Đại, nguyên chủ nhiệm khoa lây nhiễm của bệnh viện 108. Năm 1967 bố mình là đoàn trưởng đòan của viện 108 sang Trung Quốc để chống dịch viêm màng não cho trường mình, lúc bên khóa 7 có một người bị chết ấy. - Anh Hòa hay sao ấy nhỉ? - Anh Hòa. Hồi ấy đoàn bố mình sang khoảng mấy tháng. Đến khi bọn mình sang thì đòan ấy về rồi. Mỗi người trong đoàn được phát một bộ như chúng mình: một chăn, một màn. Sau này khi mình về rồi, nhà mình cần cái màn đôi nên ghép hai màn đơn của bố và của mình thành cái màn đôi này, dùng 4 chục năm rồi. Gần đây thì không dùng nữa nên nó ngả màu đi thế này. SOUND #10 (phục hồi) - Hồi đi sang Trung Quốc đợt hai có chị Hằng. Khi đi tàu hỏa qua Bằng Tường để đến Quế Lâm, mình bị một cái bụi than rất to rơi vào mắt. Chị Hằng đã tìm cách lấy ra cho mình đấy. Mình nhớ mãi đoạn đấy. - Đây là bạn Huy Cường, lớp B6 bọn em. Bây giờ Cường muốn nói lời cảm ơn đến chị Hằng đấy. - Em cảm ơn chị Hằng. Chiều hôm qua, lúc ở bên cửa hang bị lấp dở, bọn nó bảo thế này thì có khi chị Hằng không chui qua được (để vào hang) nên sáng nay em nhăm nhe về sớm để đỡ chị Hằng qua, để trả ơn đấy. SOUND #11 (phục hồi) - Bạn Hải ơi, hồi ấy bạn không được ở trong hang à? - Không. - Thế thì bạn ở đâu? - Ở lán. Song là sáng đi lấy nước rửa mặt thì nhìn thấy “cấy”!!!

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

HỒI ỨC LA HIÊN (5)

Mình xin đăng tiếp những file ghi âm trong chuyến đi La Hiên (đã được phục hồi): SOUND #4 (phục hồi) Khi biên chế trong quân đội ông già mình chỉ là trung tá thôi. Năm 64 thì có một người là trung úy ở đơn vị của ông già mình đến đón mình về đi trường Trỗi. Lúc đó bà nội mình ở đấy, bà nội mình ra nói: “Thưa ông, không dám.” Khi ông ấy chào, thì ông trung úy chào: “Thưa cụ, cho cháu đón Hùng về Hà Nội để đi trường Trỗi” thì bà nội mình mới bảo “Thưa ông, không dám.”, mặc dù ông kia chỉ là một người cấp dưới trong đơn vị của bố Hùng, nhưng mà đến bây giờ mình mới hiểu người đàn bà Việt Nam ngày xưa cực kỳ lễ phép. “Thưa ông, không dám. Ông làm cùng đơn vị của em.” Tức là nói ông già của mình là em. Cực kỳ khiêm tốn. Người dân Việt Nam mình bây giờ rất tinh tướng, không có cái chuyện ấy. Bà nội mình ngày xưa là một người mà cho đến bây giờ mình không thấy có một người nào khiêm tốn như thế. Mặc dù con mình đã là cán bộ cấp trên của người khác, người khác đến nói như thế mà cụ đáp “Thưa ông, không dám.” Về sau bà nội mình nói với mình thế này: “Đối với tất cả mọi người con phải trân trọng.” Cái đó bây giờ hiếm lắm, cực kỳ hiếm. Chỗ đất này ngày xưa làm gì có láng xi măng, tòan là sỏi. Mỗi khi mình có lỗi, bà nội mình bắt mình ra nhặt những viên sỏi này xếp vào gốc cây. Lấy một cái rổ đây, từng viên một xếp vào gốc cây. Đó là một cách giáo dục trẻ con cực kỳ quý báu luôn. Mình ở với cụ cho đến năm bọn mình đi trường Trỗi. Sau khi ở trường Trỗi về đến năm ‘70 thì mình và Quốc Bình, B1 (bây giờ ở trong Nam) lên đây.